Bài viết Lý thuyết Dịch – Công ty dịch thuật Dịch
Số thuộc chủ đề về HỎi
Đáp thời gian này đang được rất nhiều bạn quan tâm đúng không
nào !! Hôm nay, Hãy cùng https://buyer.com.vn/hoi-dap/ tìm hiểu
Lý thuyết Dịch – Công ty dịch thuật Dịch Số trong bài viết hôm nay
nhé ! Các bạn đang xem bài : “Lý thuyết Dịch – Công ty
dịch thuật Dịch Số”
Đánh giá về Lý thuyết Dịch – Công ty dịch thuật Dịch Số
Xem nhanh
Dịch thuật là gì? Dịch như nào? Hãy cùng Dịch
thuật tiếng trải nghiệm để hiểu hơn về nghề dịch và những biên dịch
làm việc tại Dịch thuật Tiếng nhé. Mặc dù không phải người lái xe nào cũng
cần phải hiểu lý thuyết vận hành của động cơ đốt trong, song chắc
hẳn phải có một ai đó biết về tình trạng này. Tôi có thể lái chiếc
Pontiac của mình mà không hề biết gì về động cơ đốt trong, cho tới
khi chiếc Pontiac bị hỏng. Khi đó, tôi sẽ phải tìm một ai đó (nhiều
có khả năng là một thợ cơ khí) có đủ hiểu biết để sửa chữa cho
chiếc Pontiac vận hành trở lại. Điều này cũng đúng đối với lý
thuyết dịch. Không phải ai cũng cần biết về lý thuyết dịch, tương
đương không phải mục sư và nhà giáo nào cũng cần phải hiểu rõ mọi
điều về lý thuyết dịch. Tuy vậy, mục sư và nhà giáo tại các nhà thờ
Mỹ vào cuối thế kỷ 20 cần có những hiểu biết nhất định về lý thuyết
dịch là vì hai lý do. Thứ nhất, điều đó sẽ tác động tới cách chúng
ta diễn giải Kinh Thánh cho mọi người. Nếu chúng ta hoàn toàn không
hiểu gì về lý thuyết dịch, chúng ta có khả năng vô tình khiến các
anh chị em em chúng ta hiểu lầm thông qua lời diễn giải của mình.
Thứ hai, có rất nhiều bản dịch tiếng Anh và ở mọi thời đại, không
có mục sư nào thoát khỏi những câu hỏi tất nhiên rằng bản dịch nào
mới là chuẩn xác nhất. Tôi không có ý định đưa ra bất kỳ cách tiếp
cận phức tạp nào về lý thuyết dịch hay lý thuyết ngữ nghĩa (tôi sẽ
đưa ra định nghĩa cho ngôn từ này sau). Thay vào đó, tôi sẽ nói
ngắn gọn về những điểm quan trọng hơn và có thể có ích đối với mục
sư. 1. Giao tiếp là một quá trình gồm ba bên. Lý thuyết dịch có
chung một vài vấn đề với ngành thường được gọi là lý thuyết giao
tiếp. Có lẽ đối với dịch giả, quan sát quan trọng nhất mà các nhà
lý luận giao tiếp đã đưa ra chính là sự công nhận rằng mỗi hành
động giao tiếp đều có ba chiều: Người nói (hoặc tác giả), Thông
điệp, và Khán giả. Càng hiểu rõ về tác giả của bản gốc, về thông
điệp thực sự do tác giả đó đưa ra, và khán giả ban đầu bao nhiêu
thì chúng ta càng hiểu rõ hơn về hành động giao tiếp chi tiết đó.
Việc hiểu rõ tính chất ba chiều này của giao tiếp có khả năng rất
có ích đối với phiên dịch viên. Giả sử như một hành động giao tiếp
đang diễn ra ngay lúc này, khi bạn đọc những dòng tôi viết, thì
hành động này bao gồm ba phương diện như sau: bản thân tôi, và điều
tôi có ý định truyền tải; những câu chữ cụ thể có trên trang này;
và nội dung mà bạn hiểu được. Khi ba phương diện này hội tụ, thì
hành động giao tiếp đó được coi là hiệu quả. Nếu chúng ta biết được
về hoàn cảnh cụ thể của một tác giả nào đó, có khả năng là từ một
nguồn nào đó khác, những hiểu biết này có thể sẽ giúp chúng ta hiểu
hơn về thông điệp thực sự mà tác giả muốn truyền tải. Một người
biết về hoàn cảnh lịch sử khi tác phẩm “Letters from Prison” của
Martin Luther King, Jr. được viết ra sẽ hiểu về tác phẩm này hơn
những người không hiểu về lịch sử nước Mỹ trong những năm giữa thế
kỷ 20. Nếu biết được những thông tin về khán giả mà tác giả đang
hướng tới, chúng ta cũng sẽ hiểu hơn về thông điệp được truyền tải.
Bài nói chuyện nổi tiếng “Ich bin ein Berliner” của John Kennedy sẽ
được hiểu sâu hơn nếu người đọc hiểu về những nỗi lo sợ của người
dân Tây Đức đối với chính sách đối ngoại của Mỹ trong những năm đầu
1960 (và khi đã biết người nghe bài nói chuyện này là những người
Đức thì chúng ta dễ dàng hiểu vì sao Kennedy l
ại không dùng tiếng
Anh khi nói câu trên!). Nhận biết được rằng ngoài bản thân thông
điệp còn tồn tại hai thành tố khác là tác giả và khán giả, người
phiên dịch luôn cố gắng tìm hiểu càng thường xuyên thông tin về tác
giả và khán giả càng tốt. Đó là lý do vì sao các học giả thống kê
Kinh Thánh lại dành thường xuyên thời gian cố gắng xác định hoàn
cảnh của một bức thư của sứ đồ truyền giáo cho sẵn; họ đang cố gắng
tìm kiếm những thông tin về tác giả và độc giả của bức thư, nhằm
hoàn chỉnh thêm hiểu biết về hành động giao tiếp cụ thể được đại
diện bởi thông điệp trên. Tới đây, tôi cần trình bày một lưu ý quan
trọng. Đối với những người học tập và nghiên cứu về các tác phẩm
văn học mà cả tác giả lẫn độc giả đều không có mặt (vd. đã chết),
chúng ta chỉ được tiếp cận trực tiếp với một trong số ba bên tham
gia vào quá trình giao tiếp: bản thân thông điệp đó. Mặc dù chúng
ta sẽ có lợi nếu được tiếp cận trực tiếp với tác giả và độc giả
(“Paul, ý ông là gì khi ông nhắc tới việc rửa tội cho người chết?”;
hay “Người Galatian các bạn thấy thế nào khi Paul nói rằng ông ấy
ước gì những kẻ gây ra phiền toái cho ông ấy sẽ tự chịu phép cắt
bì?”), sẽ là không phải nếu cho rằng chúng ta cần phải được tiếp
cận trực tiếp như vậy thì mới hiểu được thông điệp. Thông thường,
ta sẽ gặp phải những khẳng định có tính phóng đại rằng “ta không
thể hiểu được một cuốn sách Kinh Thánh trừ phi hiểu được hoàn cảnh
của tác giả (hoặc độc giả).” Vấn đề đối với những khẳng định này
nằm ở chỗ chúng gián tiếp cho rằng chúng ta không thể hiểu được
chút nào nếu không được tiếp cận với những thông tin mà không phải
lúc nào cũng tồn tại. Chúng ta không hề biết rằng ai là người đã
viết bức thư gửi tới người Do Thái, hay vì lý do gì, ngoài những
điều có khả năng được xác định bằng chính bức thư. Điều này có
nghĩa là chúng ta không thể hiểu được nó theo bất kỳ cách nào ư?
Tôi không nghĩ vậy. Chúng ta chỉ cần hiểu rằng trong trường hợp
này, những thông tin có thể hỗ trợ cho vận hành diễn giải đang bị
thiếu vắng. Còn một lưu ý khác có liên quan tới lưu ý trên đây. Đối
với người Tin lành, bản thân thánh kinh được gán cho thẩm quyền
riêng. Theo cách hiểu của tôi về thần học Tin lành, sự tái hiện lại
của chúng ta, thường bị phụ thuộc vào ảnh hưởng của hoàn cảnh lịch
sử khi các tài liệu kinh thánh này được viết và được đọc, không có
thẩm quyền đó. Những tái hiện này có thể giúp chúng ta hiểu được
văn bản kinh thánh, nhưng bản thân chúng không sở hữu bất kỳ thẩm
quyền tôn giáo nào. Cuối cùng, ta nên nói thêm rằng những lỗi sai
cơ bản của thường xuyên lý thuyết có tính luận bình chính là việc
những lý thuyết này không xét tới một hoặc hai trong số ba yếu tố
nói trên. Mặc dù nhiều cuộc tranh luận quan trọng vẫn tiếp tục ảnh
hưởng lên lý thuyết diễn giải, sự đánh giá của chúng ta về những
cuộc tranh luận này sẽ trở nên có tổng giá trị hơn thường xuyên nếu
chúng ta biết duy trì vai trò cho từng phương diện trong số ba
phương diện như đã nói ở trên. 2. cũng như khuôn mẫu và tương đương
động một trong số những tranh luận đang tiếp diễn về dịch thuật
xoay quanh câu hỏi liệu bản dịch có nên phản ánh ngữ pháp, hay cách
thức của ngôn ngữ gốc hay không, và nếu có thì ở mức độ nào là phù
hợp. Toàn bộ cộng đồng dịch thuật đều thống nhất rằng bản dịch nên
phản ảnh trung thực thông điệp gốc, nhưng không phải ai cũng có câu
trả lời như nhéu trước câu hỏi liệu bản dịch có cần bám sát vào cấu
trúc ngữ pháp của ngôn ngữ gốc hay không. Các bản dịch có khả năng
được đặt trên một phổ, trong đó một thái cực là bám sát chặt chẽ
vào cấu trúc của ngôn ngữ gốc (cũng như khuôn mẫu), và thái cực còn
lại là hoàn toàn bỏ qua cấu trúc (không phải thông điệp) của ngôn
ngữ gốc (cũng như động). Kinh Thánh song ngữ dòng xen dòng sẽ là ví
dụ gần nhất với thái cực đầu tiên, sau đó là NASB. Ở thái cực còn
lại sẽ là NEB và TEV. Ở giữa sẽ là RSV và NIV, với RSV nghiêng
thường xuyên hơn về phía tương đương khuôn mẫu, còn NIV nghiêng
nhiều hơn về phía tương đương động. có khả năng nói rằng hầu hết
các nhà ngôn ngữ học đương đại đều đặn ưa chuộng cách tiếp cận
tương đương động trên lý thuyết, song họ có thể sẽ cảm thấy thất
vọng với những nỗ lực nhằm tạo ra bản dịch theo hướng tiếp cận này.
Lý do để một dịch giả muốn tái hiện lại ý nghĩa của bản gốc mà
không tuân theo cấu trúc của nó chính là do mọi ngôn ngữ đều có ngữ
pháp của riêng nó. Mặc dù ngữ pháp của một ngôn ngữ có thể tương
đồng với ngữ pháp của các ngôn ngữ khác, song nó cũng có những khác
biệt. do đó, nếu cố gắng bám chặt vào ngữ pháp khuôn mẫu của một
ngôn ngữ khác, chúng ta sẽ tạo ra những cấu trúc bất thường hoặc
gây ra khó hiểu, nếu không muốn nói là rối loạn hoàn toàn trong
ngôn ngữ đích. Chẳng hạn, người Hy Lạp thường dùng những câu rất
dài, các mệnh đề trong câu được sắp xếp theo một trật tự logic.
Điều này có nghĩa là sẽ có một số mệnh đề phụ thuộc được kết nối
với một mệnh đề độc lập. Loại cấu trúc câu này là hoàn toàn bình
thường trong tiếng Hy Lạp, được gọi là cấu trúc phụ thuộc (các mệnh
đề được sắp xếp một cách logic theo thứ tự từ trên xuống). Trái
lại, tiếng Anh lại không chuộng các câu dài, và không đưa ra phương
pháp đơn giản nào để xác định mệnh đề nào phụ thuộc vào mệnh đề
nào. Cấu trúc câu của tiếng Anh được gọi là cấu trúc đồng đẳng (các
mệnh đề được sắp xếp theo trình tự logic ngang bằng với nhéu). Nếu
ta cố gắng sử dụng tiếng Anh để tái hiện những câu có độ dài ngang
bằng với câu gốc trong tiếng Hy Lạp, độc giả sẽ không thể theo dõi
được bản dịch của chúng ta. Chẳng hạn, Ephesians 1:3-14 là một câu
hoàn chỉnh trong tiếng Hy Lạp, với các mệnh đề phụ được xác định
rất rõ ràng. Nếu chúng ta cố gắng tái hiện một câu có độ dài tương
đương trong tiếng Anh, kết quả sẽ rất kỳ quặc đến mức sẽ chỉ có rất
ít, thậm chí là chẳng có độc giả tiếng Anh nào có thể hiểu được nó
cả. do đó, dịch giả buộc phải bẻ gãy các câu dài trong tiếng Hy Lạp
thành những câu ngắn hơn trong tiếng Anh. Đối với mục sư và nhà
giáo, việc nhận biết cấu trúc phụ thuộc của ngôn ngữ gốc là rất
quan trọng, bởi tình trạng này thường có ý nghĩa về thần học và đạo
đức. Chẳng hạn, chỉ có một thể mệnh lệnh (mệnh đề độc lập) duy nhất
trong Đại Mạng Lệnh – “make disciples.” Tất cả những động từ khác
đều đặn là phụ thuộc. Những mệnh đề khác giúp mô tả ý nghĩa của
điều răn. tuy nhiên, hầu hết các bản dịch tiếng Anh đều lược bỏ vấn
đề này khi dịch Đại Mạng Lệnh như một chuỗi các thể mệnh lệnh cũng
như. không những vậy, các dịch giả thường xử lý một trong số những
mệnh đề phụ như thể nó là mệnh đề chính (độc lập) (“Go”). Vì vậy,
mục sư và nhà giáo cần phải hiểu điều gì đang diễn ra trong cấu
trúc của ngôn ngữ gốc mà không nhất thiết phải cố gắng tái hiện lại
nó trong bản dịch tiếng Anh. Giữa hai ngôn ngữ còn có những khác
biệt khác. Tiếng Hy Lạp thường sử dụng động từ bị động, tiếng Anh
lại ưa dùng động từ chủ động. Tiếng Hy Lạp thường tạo danh từ từ
động từ (“sự cứu rỗi” và “cứu rỗi” thường nhật như nhau). Người
dùng tiếng Anh lại không mấy thoải mái với sự trừu tượng hóa này;
họ cảm thấy thoải mái hơn khi dùng động từ. Một bản dịch cũng như
động thường sẽ tái hiện ý nghĩa của câu tiếng Hy Lạp bằng một cách
thức nào đó tự nhiên hơn trong tiếng Anh. Chẳng hạn như trong 2
Thess 2:13, pistei aletheias được RSV dịch là “belief in the truth”
(tương đương khuôn mẫu), nhưng lại được NEB dịch là “the truth that
you believe” (cũng như động). Bản dịch thứ hai, dù độ chính xác
không hơn so với bản thứ nhất, song lại một cách tự nhiên hơn, và
Vì vậy dễ hiểu hơn. Một ví dụ kinh điển về sự khác biệt giữa ngữ
pháp tiếng Anh và tiếng Hy Lạp được thể hiện qua sự khác biệt trong
việc dùng phân từ của từng ngôn ngữ. Trước hết, phân từ trong tiếng
Hy Lạp được dùng thường nhật hơn nhiều so với trong tiếng Anh.
Nhưng cách sử dụng phân từ tiếng Hy Lạp cũng khác so với phân từ
tiếng Anh. Tiếng Hy Lạp thường triển khai phân từ theo cách thức
thuộc ngữ, giống như một tính từ thuộc lời. Điều này rất hiếm gặp
trong tiếng Anh. James Taylor đúng là có hát về “The Walking Man,”
song hiện tượng này hiếm khi xuất hiện ngoài các biểu hiện nghệ
thuật. Chúng ta thường đưa ra một mệnh đề quan hệ: “the man who
walks.” Vì những khác biệt trong việc sử dụng phân từ trong hai
ngôn ngữ, trong nhiều trường hợp, chúng ta không thể chỉ đơn giản
dịch một phân từ tiếng Hy Lạp sang một phân từ tiếng Anh mà không
khiến bản dịch trở nên khó hiểu hay mơ hồ. Dikaiothentes trong
Romans 5:1 không nên dịch là “having been justified” (NASB: tương
đương khuôn mẫu), mà nên dịch là “since we are justified” (RSV:
cũng như động). tuy nhiên, bản dịch tương đương động cũng có rất
nhiều lý do. Vì dịch giả được “phóng ra” thường xuyên hơn khỏi
những cấu trúc ngữ pháp của ngôn ngữ gốc, do đó anh ta sẽ dễ vượt
qua giới hạn của bản dịch chính xác trong nỗ lực diễn đạt một cách
một cách tự nhiên hơn bằng ngôn ngữ bản địa. Điều này có nghĩa là
các bản dịch cũng như động có thể sẽ tự nhiên và chính xác hơn so
với các bản dịch tương đương khuôn mẫu, song chúng cũng có nhiều
khả năng bị thiếu chính xác hơn. Chẳng hạn, trong Romans 8:3, Paul
dùng cụm từ: dia tes sarkos. Bản dịch cũng như khuôn mẫu RSV biến
đổi cụm này thành “by the flesh” – cụm này sát với bản gốc nhưng
lại có phần mơ hồ trong tiếng Anh. NIV lại biến đổi cụm này một
cách chi tiết hơn thường xuyên bằng cụm từ “by the sinful nature.”
Có điều, trong trường hợp này, bản dịch của NIV lại thiếu chính
xác, bởi ở đâu Paul không nói tới bản chất thấp kém hay tội lỗi.
Trên thực tế, Paul không nói trên phương diện nhân chủng học, mà là
cứu rỗi trên phương diện lịch sử. Trong trường hợp cụ thể này, tôi
cho rằng chúng ta thà sử dụng từ “flesh” mơ hồ và buộc phải đặt ra
câu hỏi rằng ‘xác thịt’ có ý nghĩa như thế nào với Paul, còn hơn là
dùng một cụm từ chi tiết hơn nhưng hoàn toàn không hề theo ý Paul
như “sinful nature.” Một vấn đề khác được LH với các bản dịch tương
đương động có liên quan tới việc dùng chúng trong thống kê Kinh
Thánh. Vì một từ cho sẵn có khả năng có thường xuyên ý nghĩa khác
nhéu, nên việc cố gắng dịch một từ tiếng Hy Lạp cho sẵn nào đó bằng
từ tiếng Anh giống hệt như vậy trong mọi trường hợp là điều không
thể, và thường gây ra bối rối. Vì vậy, bản dịch cũng như động có
khả năng chuyển biến một cách chi tiết hơn sang tiếng Anh, vì không
bị ràng buộc bởi nỗ lực tái hiện đúng từ tiếng Hy Lạp đó theo cách
hoàn toàn tương tự trong tiếng Anh. Điều này thường giúp tăng độ dễ
hiểu cho từng câu hoặc mệnh đề riêng biệt. Tuy vậy, nó không cho
phép độc giả tiếng Anh biết được khi nào thì cùng một từ tiếng Hy
Lạp đứng sau hai từ tiếng Anh khác nhau. Vì cách duy nhất để biết
được ý nghĩa của một từ là phải trực tiếp xem xét toàn bộ phạm vi
tình huống sử dụng của nó, nên không có cách nào để độc giả tiếng
Anh biết được những từ nào đứng đằng sau các từ tiếng Anh mà họ đọc
được. Chẳng hạn, khi Paul nói rằng ông không thể gọi người Corinth
là pneumatikoi, mà là sarkinoi (1 Cor 3), ông đã sử dụng các hình
thức tính từ của những gì chúng ta thường dịch là “Spirit” (“Thánh
Linh”) và “flesh” (“xác thịt”). ngoài ra, trong Romans 8 (tương
đương những văn bản khác), ta thấy rõ rằng cuộc sống trong Thánh
Linh là đời sống được cứu rỗi; còn đời sống trong xác thịt là đời
sống chưa được cứu rỗi. Nếu các tính từ trong 1 Cor được dịch là
“spiritual” và “fleshly”, độc giả có khả năng nhìn thấy sự tương
ứng với các đoạn khác do Paul viết, và hiểu rằng Paul về cơ bản
đang muốn nói rằng “Tôi không thể gọi các bạn là những người được
cứu rỗi, mà là những người chưa được cứu rỗi.” tuy nhiên NIV lại
dịch sarx là “sinful nature” trong Rom 8, và sarkinos là “worldly”
trong 1 Cor 3, và như vậy độc giả của bản dịch này sẽ không hiểu
được rằng bản gốc sử dụng cùng một cấu trúc gốc cho hai từ này. Kết
luận ở đây chính là bản dịch tương đương động, khi được thực hiện
tốt, sẽ chuyển biến bản gốc thành những cách diễn đạt bằng tiếng
Anh cụ thể và sinh động hơn. mặc khác, làm như vậy sẽ khiến cho
việc so sánh các đoạn riêng rẽ với các đoạn song song ở nơi khác
trở nên điều kiện hơn. Trong bất kỳ giáo đoàn nào, sẽ có nhiều bản
dịch được đưa ra. Những nhà giáo của nhà thờ phải có đủ trình độ để
đánh giá xem bản dịch nào thể hiện được bản gốc chính xác hơn bằng
tiếng Anh trong các trường hợp. theo đánh giá của tôi, không có bản
dịch đương đại nào tốt hơn một cách rõ nét so với các bản khác. Mỗi
bản dịch đều đặn là một hỗn hợp của những điểm mạnh và điểm yếu các
nhéu, do sự khó khăn của công việc này. Dĩ nhiên, đối với nhà
thuyết giáo, một vài phiên bản có khả năng đơn giản được lọc bỏ.
Diễn giải, mặc dù rất hữu ích trong việc thể hiện một quan điểm,
song không thể được sử dụng như văn bản thuyết giáo căn bản, bởi
những diễn giải này phần nhiều phản ánh quan điểm của người diễn
giải. ngoài ra, Kinh Thánh dành cho trẻ em, chẳng hạn như kinh Good
News, và ở một mức độ nhất định là kinh NIV nhớ đừng nên được dùng
như thuyết giáo căn bản hướng tới toàn bộ giáo đoàn. NASB cũng
không nên được sử dụng, dễ dàng vì tiếng Anh trong bản dịch này rất
tồi tệ. Sự bám sát đến cứng nhắc của nó với nguyên tắc cũng như
khuôn mẫu, dù khiến cho nó trở nên hết sức hữu dụng trong thống kê,
song đồng thời cũng khiến nó trở nên hoàn toàn không phù hợp với
hoàn cảnh mà trong đó giao tiếp là rất quan trọng. theo đánh giá
của tôi, người thuyết giảng hông nên dùng NIV, bởi đây là một bản
dịch có tính giáo phái. Chính bản dịch cũng tự nhận là một bản dịch
“Phúc Âm,” đã lược bỏ những phần không Phúc Âm trong quy trình
dịch. Vì vậy, bản dịch này không thể được các tu sĩ chấp nhận (nó
loại trừ ngay từ đầu những người không tự nhận mình là “tín đồ Phúc
Âm,” giống như bản dịch Kingdom loại trừ những người không tự nhận
mình là Nhân chứng Jehovah). Trên thực tế, ngay cả với mục đích
thống kê, ta cũng cần tỏ ra thận trọng với những thiên kiến Phúc Âm
được phản ánh trong bản dịch này, khi những điểm yếu tương đương
điểm mạnh của Phúc Âm chưa được một hội đồng “bao quát” hơn bù đắp
lại. cụ thể, NIV cho thấy nhiều dấu hiệu của chủ nghĩa cá nhân, chủ
nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa thức tỉnh (Tôi đang đề cập tới NIV
Tân ước; tôi vẫn chưa có dịp đánh giá NIV Cựu ước một cách kỹ
lưỡng). Cùng với đó, NIV lại là tài liệu lý tưởng cho mục sư thống
kê, bởi đây là một bản dịch thể hiện tốt nhu cầu về bản dịch cũng
như động, và nó cũng rất thành công ở nhiều điểm. RSV phản ánh tầm
hiểu biết của nhà thờ, một phong cách ngôn ngữ Anh cao cấp hơn, và
là một sự thể hiện văn bản gốc tương đối chính xác hơn, có lẽ sẽ là
tài liệu lý tưởng cho nhà thuyết giảng. 3. Biên dịch là một nhiệm
vụ thần học Chúng ta ngày càng thấy rõ rằng dịch thuật không thể
thực sự được thực hiện trong môi trường không có sự tồn tại của
thần học. Khi xuất hiện những phương án ngôn ngữ khác nhau, các yếu
tố thần học có khả năng ảnh hưởng lên quyết liệt chọn phương án này
thay vì phương án khác. Trên thực tế, những yếu tố này nên ảnh
hưởng tới bản dịch. Giải pháp cho vấn đề dịch thuật về cách dịch từ
telos trong Romans 10:4 đã được tìm ra chủ yếu nhờ việc giải đáp
những câu hỏi lớn hơn về tư tưởng thần học của Paul; cách ông hiểu
về mối quan hệ giữa thánh kinh cũ với biến cố Christ, vân vân. Vì
tư tưởng thần học là do Kinh Thánh xác định, và vì công việc dịch
thuật Kinh Thánh phần nào được xác định bởi những cân nhắc liên
quan tới thần học, nên chúng ta dễ dàng nhận thấy ở đây tồn tại một
vòng lặp. May thay, đây không phải là một vòng lặp luẩn quẩn, bởi
nếu ta sẵn sàng thông cảm đón nhận một loạt các phương án khác
nhau, ta có khả năng tự tin hơn khi đánh giá một bản dịch cho
trước. tuy nhiên, ta không được ngộ nhận rằng dịch thuật là một
bước “tiền luận kinh” hay “tiền diễn giải.” Bước diễn giải đầu tiên
chính là biên dịch. Bước này sẽ ảnh hưởng tới tất cả các bước sau
đó, Vì vậy ta cần tiếp cận công việc này với toàn bộ trang bị về
công cụ thần học. Lý thuyết ngữ nghĩa Giờ là lúc thích hợp để
chuyển sang xem xét tới việc xử lý nghĩa của các từ đơn lẻ (thường
được gọi là từ vựng ngữ nghĩa học). Từ vựng trong tay một người
giảng đạo quá mơ mộng có thể trở thành thứ nguy hiểm nhất trong tất
cả các công cụ của loài người. Khi xét về tỷ lệ phần trăm đơn
thuần, những lời thuyết giảng vô nghĩa xuất phát từ những hiểu nhầm
đối với cách thức thể hiện ý nghĩa của các từ có tỷ lệ lớn nhất so
với bất kỳ lỗi thuyết giảng nào khác. Từ khi ngành nghiên cứu kỹ
thuật trong ngôn ngữ học bắt đầu phát triển vào đầu thế kỷ mười
chín, các nhà ngôn ngữ học đã phát hiện ra những hiểu biết rất có
tổng giá trị. Sau đây là nỗ lực trong việc đưa ra một số những hiểu
biết có giá trị nhất dành cho những người muốn giảng dạy và thuyết
giáo một cách trung thực nhất. 1. Trường nghĩa và bối cảnh Hầu hết
các từ đều có khả năng có những ý nghĩa khác nhéu. Chẳng hạn như từ
“run” trong tiếng Anh. Từ này có thể xuất hiện trong các bối cảnh
sau đây (và còn thường xuyên hơn nữa): The athlete is running. Her
nose is running. We scored a run in the sixth inning. I have a run
in my stocking. Does your car run? My computer runs on Windows. For
how long is the movie running? You want to run that by me again?
His sermons seem to run on forever. She’s running the flag up the
pole. Jackson is running for President. Who left the water running?
Vậy là đủ rồi. Rõ ràng hầu hết các từ đều có thể biểu hiện một loạt
những sự vật, sự việc khác nhéu. Làm sao chúng ta biết được ý nghĩa
của một từ trong một hoàn cảnh cho sẵn nào đó? Dĩ nhiên, chúng ta
không thể chỉ chọn ý nghĩa mà chúng ta thích. Trên thực tế, có hai
thành tố cấu thành ý nghĩa: trường nghĩa và bối cảnh ngữ nghĩa. Khi
nói tới trường nghĩa, ta nói tới toàn bộ phạm vi mà từ đó đã được
và có khả năng được dùng (trên đây là ví dụ về một phần trường
nghĩa của từ “run”). Bằng việc xem xét “trường” những ý nghĩa có
khả năng có, chúng ta bắt đầu thu hẹp các phương án lại. Thông
thường, sẽ vẫn còn lại rất thường xuyên phương án, Vì vậy chúng ta
vẫn phải thực hiện thêm một bước nữa. Bước thứ hai là xác định bối
cảnh ngữ nghĩa. Chẳng hạn, nếu “run” có khả năng đề cập tới sự vận
động nhanh của hai chân trong một số bối cảnh, thì chúng ta có khả
năng loại bỏ những phương án trong các bối cảnh không xuất hiện
chân hay bàn chân. Nếu “run” có khả năng có nghĩa là “chảy” hay
“nhỏ giọt”, thì đó có khả năng là cách hiểu trong hoàn cảnh xuất
hiện mũi hoặc có vòi nước, nhưng không phải trong những hoàn cảnh
không xuất hiện nước. Trong lời nói hàng ngày, chúng ta thực hiện
phương pháp so sánh với bối cảnh ngữ nghĩa này một cách vô thức với
tốc độ nhanh đến mức chúng ta thường không hề nhận thức được rằng
mình đang làm vậy. Nhưng chúng ta vẫn làm vậy, và thường xuyên làm
vậy với độ chính xác rất cao. Chúng ta nhất thiết phải làm điều
tương tự đối với các tác phẩm thánh kinh. Không có từ nào mang theo
toàn bộ trường nghĩa của mình vào bất kỳ bối cảnh cho trước nào.
Tuy vậy, vẫn có rất thường xuyên câu thuyết giảng dài dòng hoa mỹ
cố gắng thực hiện chính điều này. 2. Ý nghĩa “gốc” Rất thường xuyên
người nhắc tới cụm từ “ý nghĩa gốc.” Rất thường xuyên người nói về
ma quỷ. Cả hai tình trạng này đều đặn không tồn tại. Dường như khi
nói về ý nghĩa “gốc” của từ ngữ, họ đang cố gắng tìm ra tinh chất
cô đọng, hay phạm vi ngữ nghĩa chung của từ ngữ trong mỗi bối cảnh
của nó. Điều này có thể đúng trong một số hoàn cảnh do may mắn,
nhưng sẽ không đúng đối với hầu hết các từ. Ý nghĩa “gốc” chung nào
có khả năng giải thích được cho những cách sử dụng được liệt kê
trên đây? Đó có phải là cử động không? có khả năng, trong trường
hợp của vận đông viên, lá cờ, hay thậm chí chiếc mũi (bản thân nó
không vận động, nhưng cái bên trong nó thì có). Nhưng có “cử động”
nào liên quan tới việc một ai đó đang định tranh cử hay không? Có
cử động nào xảy ra khi một bộ phim được trình chiếu trong sáu tuần
không? Một đường rách trên tất giấy có phải là cử động theo một
cách nào đó không? Bản thân tôi không nhận thấy điều này, nếu không
phải định nghĩa lại từ “cử động” để bao hàm hầu như mọi thứ. Và nếu
làm như vậy thì chúng ta vẫn không học được điều gì chi tiết về từ
ngữ đang được nói tới (Đây chính là sự thiếu hiệu quả thực tế của
cách tiếp cận Phân tích Thành phần đối với Ngữ nghĩa học; nếu một
người tìm thấy một yếu tố đủ chung để có thể liên lạc với tất cả
các cách sử dụng của từ, thì yếu tố này lại không đủ cụ thể để giúp
ích được bất kỳ điều gì trong bất kỳ bối cảnh cho trước nào). Trên
thực tế, chúng ta thực sự không hiểu vì sao con người lại dùng từ
ngữ với phạm vi rộng như vậy. mặc khác, câu trả lời chắc chắn không
nằm trong việc có tồn tại một thứ ý nghĩa “gốc” nào đó chung cho
tất cả các cách dùng. do đó, để thuận lợi cho việc diễn dịch, tốt
hơn cả chúng ta không nên đề cập tới ý nghĩa “gốc.” Hãy nhìn vào
toàn bộ trường nghĩa, sau đó giới hạn trường này bằng những điều
kiện về bối cảnh. Điều này không có nghĩa là không có sự giống nhau
nào trong các cách dùng của một từ nào đó. Quay trở lại với từ
“run,” chúng ta có khả năng xác định một vài trường “con.” Chúng ta
thấy rằng “run” được sử dụng cho những loại chất lỏng, nhằm diễn tả
rằng chất lỏng này đang chảy. Chúng ta thấy “run” được sử dụng cho
các loại máy, nhằm diễn tả rằng máy móc đang vận hành đúng như nó
được thiết kế. Chúng ta có thể thấy từ này được sử dụng để đề cập
tới việc đưa một chân lên phía trước chân kia liên tục, lặp đi lặp
lại một cách nhénh chóng để nói về vận động viên, và mở rộng ra là
những lần “run” trong các trận bóng chày (một từ nói tắt dùng để
chỉ việc một cầu thủ chạy quanh các gôn). Song các lĩnh vực này có
vẻ như không có liên quan tới nhéu, mặt khác cũng không giải thích
được trường hợp của tất giấy hay lá cờ. Có lẽ chúng ta chỉ nên mang
ý nghĩa “gốc” ra xem mỗi năm một lần, vào ngày 31 tháng 10, rồi lại
cất đi trong suốt những tháng còn lại trong năm. 3. Từ nguyên học
và thay đổi ngay ngữ nghĩa Từ nguyên học là một ngành thống kê rất
có tổng giá trị. Từ nguyên học nghiên cứu lịch sử dùng của một từ.
Ngành nghiên cứu này đem lại lợi ích về mặt lịch sử khi thể hiện
cho chúng ta thấy một từ có khả năng có ý nghĩa gì trong một thời
kỳ nhất định. Dĩ nhiên, một trong những điều mà các nhà từ nguyên
học phát hiện ra chính là từ ngữ thay đổi theo thời gian. Điều này
có nghĩa là con người ngày càng dùng từ ngữ theo thường xuyên cách
đa dạng hơn, mở rộng những cách sử dụng đã biết và tạo ra những
cách dùng mới. do đó, lịch sử dùng của một từ chưa chắc sẽ giúp ích
được gì trong việc xác định ý nghĩa của nó trong một bối cảnh nhất
định. Và dĩ nhiên điều này cũng không có nghĩa là ý nghĩa “đầu
tiên” được biết đến sẽ là ý nghĩa “đích thực,” “thật,” hay “gốc.”
Chẳng hạn, từ “gay” có nghĩa là “hạnh phúc” hoặc “vô tư” tại một số
vùng trong một vài thời đại. Nó rõ ràng không có ý nghĩa như vậy ở
San Francisco ngày nay. Đừng nhầm tưởng; “happy hour” tại một quán
bar “gay” có khả năng là một trải nghiệm hết sức khổ sở đối với một
người dị tính không uống rượu. Người diễn dịch thánh kinh không đặc
biệt quan tâm tới ý nghĩa của một từ nào đó vào thời đại cách thời
điểm dùng từ hàng vài thế kỷ. Thay vào đó, người diễn dịch thánh
kinh muốn biết phạm vi ngữ nghĩa của từ ngữ đó trong thời gian sử
dụng của nó. Từ nguyên học không thực sự hiệu quả trong việc hoạch
định tìm ra ý nghĩa của một từ nào đó trong một bối cảnh cho trước.
Bối cảnh ngữ nghĩa mới là định hướng đáng tin cậy hơn. 4. Đa nghĩa
Bạn có thể vài lần bắt gặp thuật ngữ này, do đó bạn cũng nên biết
về ý nghĩa của từ này. “Đa nghĩa” đề cập tới có khả năng sở hữu một
vài lượng ý nghĩa khác nhéu trong bất kỳ một thời kỳ lịch sử nào đó
của một từ cho trước. “Run” là một từ đa nghĩa. Người diễn dịch cần
phải nhận thức được đầy đủ phạm vi ngữ nghĩa có khả năng có của một
từ nào đó trước khi xác định xem nó có nghĩa gì trong bối cảnh đã
cho. 5. Từ ngữ và khái niệm Để rõ ràng hơn, ta nên phân biệt giữa
một từ và một khái niệm. Hầu hết các từ đều có thể được dùng để đề
cập tới một số khái niệm, và hầu hết các khái niệm đều có khả năng
được thể hiện thông qua một loạt các từ ngữ. Vì vậy, charis là một
từ; còn ân điển là một khái niệm có thể được diễn đạt bằng thường
xuyên cách khác nhau. do đó, nếu bạn muốn thống kê “Ân điển của
Chúa trời trong Tân ước,” bạn sẽ bổ sung thêm không những những
nghiên cứu từ vựng về charis, mà còn cả những đoạn kinh trong đó
nói về những hành động ân đức của Chúa mà không nhắc tới từ ngữ chi
tiết đó. Chẳng hạn, dụ ngôn người làm công trong vườn nho thể hiện
ân điển của Chúa, khi những người tới muộn vào cuối ngày cũng nhận
được phần thưởng ngang bằng với những người đã làm việc cả ngày.
Chúa ban ân điển, trao lại vương quốc không những cho người Do Thái
mà còn cho dân ngoại, những người tới hơi muộn, có thể được cứu rỗi
– xét trên phương diện lịch sử. 6. “Chủ nghĩa tối thiểu” ngữ nghĩa
một trong những tiên đề hay nhất để áp dụng khi cố gắng tìm ra ý
nghĩa của một từ cho trước nào đó được đúc kết trước tiên bởi
Ferdinand de Saussure và các học trò của mình. Ý nghĩa chuẩn xác
nhất của một từ ngữ cho trước chính là ý nghĩa đóng góp ít nhất cho
ý nghĩa chung của cả câu. Trong hầu hết các hành động giao tiếp,
chúng ta không “chất” lên một từ nào đó rất nhiều ý nghĩa. Thay vào
đó, chúng ta thường trình bày theo từng đoạn và từng câu – bản thân
những từ ngữ riêng rẽ mang theo ít ý nghĩa, nhưng lại nói lên nhiều
ý nghĩa khi được ràng buộc với nhéu. Rất nhiều học sinh trường đạo
và người thuyết giáo có vẻ không nhận thức được điều này, vì họ
nhiều diễn dịch Kinh Thánh như thể từng từ riêng rẽ trong đó gần
như là có phép thần tiên, mang theo những sự thật và những bí ẩn
lớn chỉ không quá sáu hay bảy chữ cái. Có rất ít thuật ngữ kỹ thuật
trong bất kỳ ngôn ngữ nào; những từ ngữ này được “chất” lên nhiều ý
nghĩa hơn hầu hết các từ ngữ.
Kết luận Nếu nói một cách ngắn gọn về kết quả nghiên cứu ngôn ngữ học trong vòng vài thế hệ gần đây, ta chắc chắn không thể không nói tới tầm quan trọng của bối cảnh. Các nhà ngôn ngữ học đã hết lần này đến lần khác giúp chúng ta nhận thức được rằng đơn vị giao tiếp cơ bản là câu chứ không phải là từ. Từng từ riêng rẽ, bị tách ra khỏi bối cảnh của một câu, rất hiếm khi giao tiếp hiệu quả được. Các từ ngữ liên kết với nhau, hỗ trợ và diễn giải lẫn nhau, có thể giao tiếp rất hiệu quả. Đối với những người nghiên cứu thánh kinh, điều này có nghĩa là chúng ta cần phải xem xét tới những dạng thống nhất lớn hơn của giao tiếp (câu và đoạn) một cách nghiêm túc, ít nhất là ngang bằng với cách chúng ta xem xét các từ đơn lẻ. Chúng ta cần nhận thức được rằng một từ cho trước có khả năng đề cập tới một loại những điều khác nhau trong những bối cảnh khác nhéu. Bản thân tôi, tôi muốn đọc thêm nhiều bài giảng về cả một chương thánh kinh, thậm chí cả một quyển, và bớt đi những bài giảng về một đoạn ở chỗ này hay chỗ kia. Nếu một người có khả năng nói một cách súc tích trong vòng 20 phút về toàn bộ Romans 1-11, thì anh ta chắc hẳn sẽ có khả năng xử lý được Romans 6:3 nếu cần. Nếu sự nhấn mạnh về bối cảnh trong ngôn ngữ học đương đại có khả năng giúp chúng ta nhìn thấy “cả khu rừng” của một cuốn thánh kinh, thay vì từng “cái cây” ứng với từng từ ngữ riêng lẻ, thì đó chính là điều giúp ích rất thường xuyên cho chúng ta và cho vương quốc của Thiên Chúa.
Giáo sư T. David Gordon, quê quán ở Richmond, VA, hiện là Giáo sư Tôn giáo học và Hy Lạp học tại Cao đẳng Grove City ở Grove City, PA, nơi ông bắt đầu làm việc từ năm 1999. Trước đó, giáo sư đã từng giảng dạy trong vòng mười ba năm tại Trường dòng Thần học Gordon-Conwell.
Các câu hỏi về lý thuyết dịch là gì
Nếu có bắt kỳ câu hỏi thắc mắt nào vê lý thuyết dịch là gì hãy cho chúng mình biết nhé, mõi thắt mắt hay góp ý của các bạn sẽ giúp mình cải thiện hơn trong các bài sau nhé <3 Bài viết lý thuyết dịch là gì ! được mình và team xem xét cũng như tổng hợp từ nhiều nguồn. Nếu thấy bài viết lý thuyết dịch là gì Cực hay ! Hay thì hãy ủng hộ team Like hoặc share. Nếu thấy bài viết lý thuyết dịch là gì rât hay ! chưa hay, hoặc cần bổ sung. Bạn góp ý giúp mình nhé!!
Các Hình Ảnh Về lý thuyết dịch là gì
Các hình ảnh về lý thuyết dịch là gì đang được chúng mình Cập nhập. Nếu các bạn mong muốn đóng góp, Hãy gửi mail về hộp thư [email protected] Nếu có bất kỳ đóng góp hay liên hệ. Hãy Mail ngay cho tụi mình nhé
Tra cứu dữ liệu, về lý thuyết dịch là gì tại WikiPedia
Bạn hãy tìm thông tin về lý thuyết dịch là gì từ web Wikipedia.◄ Tham Gia Cộng Đồng Tại???? Nguồn Tin tại: https://buyer.com.vn/
???? Xem Thêm Chủ Đề Liên Quan tại : https://buyer.com.vn/hoi-dap/
Các bài viết liên quan đến