Bài viết Từ ăn và những biến thể đồng nghĩa thuộc
chủ đề về Thắc Mắt thời
gian này đang được rất nhiều bạn quan tâm đúng không nào !! Hôm
nay, Hãy cùng Buyer tìm hiểu Từ
ăn và những biến thể đồng nghĩa trong bài viết hôm nay nhé ! Các
bạn đang xem bài : “Từ ăn và những biến thể đồng
nghĩa”
Đánh giá về Từ ăn và những biến thể đồng nghĩa
Xem nhanh
Bạn có chắc mình đều biết hết cách dùng của chữ “吃” chưa?
“吃“的用法,你确定你都会吗?
________________________________
Kết nối với chúng tôi qua:
• FB: https://www.facebook.com/ChineseRd.CN
• Website: https://chineserd.com/home
• YT: https://www.youtube.com/channel/UC34UUOkS__SwWPNdP8KAIaw
• Địa chỉ: Tầng 3 toà nhà Sao Mai, 19 Lê Văn Lương, Thanh Xuân, Hà Nội.
• Điện thoại: 02456789520
• Địa chỉ email: [email protected] https://www.youtube.com/c/ChineseRdVietnam
“吃“的用法,你确定你都会吗?
________________________________
Kết nối với chúng tôi qua:
• FB: https://www.facebook.com/ChineseRd.CN
• Website: https://chineserd.com/home
• YT: https://www.youtube.com/channel/UC34UUOkS__SwWPNdP8KAIaw
• Địa chỉ: Tầng 3 toà nhà Sao Mai, 19 Lê Văn Lương, Thanh Xuân, Hà Nội.
• Điện thoại: 02456789520
• Địa chỉ email: [email protected] https://www.youtube.com/c/ChineseRdVietnam
(Thethaovanhoa.vn) – “Ăn” là một từ cơ
bản trong kho từ vựng tiếng Việt. Nó cũng là 1 trong một vài từ ít
ỏi trong tiếng Việt có những biểu hiện rất phong phú trong giao
tiếp.

Chữ và nghĩa: ‘Cân hơi’, ‘cân móc hàm’ – hiểu theo dân gian
Vừa rồi, nhân tình hình giá cả thịt lợn trên thị
trường lên xuống thất thường, có một bạn sinh viên hỏi tôi: Thưa
thầy, xưa nay em vẫn hiểu “cân móc hàm” tức là móc cái cân vào hàm
con lợn để giết thịt phải không ạ?
“Từ điển tiếng Việt” (Hoàng Phê chủ biên, Trung tâm Từ
điển học, NXB Đà Nẵng, 2020) phân xuất từ “ăn” ra 14 nghĩa vị (nét
nghĩa). Nhưng có một nét nghĩa chính (nghĩa 1), liên quan tới vận
hành nhiều, quen thuộc, thoả mãn một mong muốn tối rất cần thiết
của con người:
“ăn đg. 1. tự cho vào cơ thể thức nuôi sống (VD: Bé đã
biết xúc cơm ăn; Lợn đã bỏ ăn mấy hôm nay; Ăn có nhéi, nói có nghĩ
– tục ngữ)”.
Đó là nghĩa gốc, mang tính trung hòa, tức không nghiêng về
một sắc thái thể hiện ý chủ quan của người nói. mặc khác, trong đời
sống, người ta lại cần có những từ cũng như mang sắc thái biểu cảm,
tức là những từ đồng nghĩa được sử dụng theo các phong cách chức
năng khác nhau.
Có một từ rất cổ, liên quan tới ăn: ngự thiện. Trong tác
phẩm “Đêm hội Long Trì”, Nguyễn Huy Tưởng viết: “Chiều hôm ấy,
Chúa, Tuyên phi và Thế tử cùng ngự thiện trên lầu”. Ngự thiện là từ
Hán Việt, chỉ dùng khi nói về các vua chúa sử dụng cơm trong cung
đình. Rõ ràng, đây là một từ có sắc thái trang trọng độc nhất. Bởi
với các bậc vua thuộc hàng thiên tử, người ta không thể sử dụng từ
một cách tầm thường hay suồng sã được.
Khi có khách đến nhà, dọn cơm ra, người Việt ta thường
nói: “xin phép mời bác xơi tạm bữa cơm dưa muối với nhà em ạ”. “Mời
ông/bà, bố/mẹ… xơi cơm” là lời mời của những người ít tuổi, thuộc
hàng dưới (con, cháu) trong gia đình trước khi ăn. Xơi ở đây cũng
sử dụng với nghĩa trang trọng. Nhưng cũng có lúc, tùy ngữ cảnh mà
“xơi’ chuyển trạng thái nghĩa không được hay: “Thôi, ông xơi cho
nhénh cho tôi còn dọn”, “Chỉ mấy năm mà hắn đã xơi tái mấy mẫu
ruộng của dân” v.v…
“Chén” là từ được sử dụng không ít khi nói chuyện ăn uống.
“Này, vào đây chén món này xong rồi hẵng đi!”, “Món khoai tây hầm
ngon quá, cả hội chén một mạch hết bay cả nồi”; “Chén ba bát bún
giả cầy/ Ông nằm “kéo gỗ” cả ngày chưa thôi.”, v.v… Từ “chén”
thường dùng trong bối cảnh nói năng dân dã, thân mật.

Trẻ em còn nhỏ, thường được người lớn nựng ăn bằng từ
“măm”. “Con ngoan, mẹ cho măm măm nào!” Đôi khi, người lớn cũng
“măm” ra trò chứ cứ gì lũ trẻ: “Hai ta cùng măm cho hết món này
nhé!” v.v…
“Đớp, hốc, tọng” là những từ mang sắc thái không hay. Đớp
vốn là từ chỉ động tác “há miêng ngoạm nhénh lấy (một cái gì đó)”
(ví dụ: Cá đớp mồi; Con cóc nằm nép bờ ao/ Lăm le lại muốn đớp sao
trên trời). Nhưng “đớp” trong bối cảnh dùng một cách thông tục thì
mang hàm nghĩa xấu, coi thường, khinh miệt (ví dụ: Nó thì làm ăn có
ra gì, chỉ có đớp là giỏi thôi; Cái bọn ấy, suốt ngày cổ xúy cho
“chủ nghĩa đớp”). Cũng vậy, ai đó được gán cho từ “hốc” cũng chẳng
vẻ vang gì (ví dụ: Cứ hốc cho lắm vào rồi chết vì miếng ăn). Còn
“tọng” thì đúng là một kiểu “ăn một cách thô tục, tham lam, chỉ cốt
sao được nhiều” (ví dụ: Hắn vục mặt xuống, cứ thế tọng cho đầy cái
dạ dày; Có tọng cho nhénh không đến giờ đi rồi đấy!)
v.v…
- Chữ và nghĩa: ‘Be bé’ và ‘tre trẻ’
- Chữ và nghĩa: Sống ký sinh trùng?
- Chữ và nghĩa: Cơn đằng Đông vừa trông vừa chạy…
Còn có những từ “ăn” dùng theo phương ngữ nữa đấy. “Nhá”
là một ví dụ. Dân tình đang bàn tán nhiều về từ “nhá” này trong
sách giáo khoa “Tiếng Việt” lớp 1 gần đây. “Từ điển tiếng Việt” (đã
dẫn) không cho “nhá” là phương ngữ, mà giải nghĩa theo hướng khác
biệt về nét nghĩa: “nhá đg. nhai kỹ cho giập, cho nát [thường vật
dai, cứng, khó ăn]”. Vậy câu nói “nhá cỏ” nếu có bị phê phán thì
không phải là sử dụng từ địa phương mà chính là sử dụng không phù
hợp (bởi nó không tương đương với từ “ăn” về nét nghĩa chính). Cỏ
thì hơi dai, nhưng chả cứng, chả khó ăn chút nào. Thỏ “nhá cỏ”
không đồng nghĩa hoàn toàn với “ăn cỏ”.
Như vậy, qua phân tích ta thấy các từ có nghĩa tương đương
với từ “ăn” là khá thường xuyên. Nó là các biến thể dùng trong các
bối cảnh khác nhau. Đó chính là các giá trị mang tính ngữ dụng rất
cần thiết được sử dụng trong các tình huống khác nhéu.
Ôi chao! Chỉ một từ “ăn”
Xem ra ngữ nghĩa có phần “lôi thôi”
Biết bao cung bậc cuộc đời
Nếu biết sử dụng đúng thời sẽ hay.
PGS-TS PHẠM VĂN
TÌNH
Các câu hỏi về ăn có nghĩa là gì
Nếu có bắt kỳ câu hỏi thắc mắt nào vê ăn có nghĩa là gì hãy cho chúng mình biết nhé, mõi thắt mắt hay góp ý của các bạn sẽ giúp mình cải thiện hơn trong các bài sau nhé